Kể chuyện kinh cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975 (phần 1)
Bài viết khảo cứu tổng hợp một số tài liệu đề cập đến hệ thống cầu, sông, kinh, rạch vùng Sài Gòn-Chợ Lớn qua các thời kỳ khai phá đầu nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc đến thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trước 1975. Trọng điểm nhầm thẩm tra những địa danh dựa trên khảo sát, nghiên cứu bản đồ, không ảnh, hình ảnh tìm thấy thời Pháp và VNCH nhìn lại trong hoài niệm của một thời tuổi trẻ. Những kinh cầu xưa nay đã đi về trong tâm tưởng hay đã thay da đổi áo , cũng đã chuyên chở bao nhiêu kiếp sống thăng trầm cùng những kỹ niệm thân thương của những ai đã từng xuôi ngược, mang hơi thở Saigon một thời là Hòn Ngọc Viễn Đông.
Năm 1618 chúa Sãi (Nguyễn Phước (Phúc) Nguyên) gả con gái cho vua Miên Chey Chetta II, năm 1623. Chúa mượn xứ Prei Nokor để mở trạm thuế đồng thời được phép gởi quan đến để quản lý việc thu thuế và thương vụ hành chính.
Năm 1658 chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cho quân tiến chiếm và phá hủy thành Mô Xoài vì quân Nặc Ong Chăn vua Cao Miên xâm phạm Trấn Biên (thời mới khai thác gọi những chỗ đầu biên giới là Trấn Biên) tức Phú Yên ngày nay.
Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí:
“Lúc ấy địa đầu của Gia định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên hoà) tại hai xứ này đã có dân của nưóc ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì”.
Năm 1679 (Kỷ Mùi, mùa xuân tháng Giêng) tướng cũ nhà Minh, tổng binh thủy lục trấn các xứ ở Long Môn (Quảng Đông) Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung (cửa Tư Hiền) và cửa Hàn Đà Nẵng, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, đến xin thần phục để làm dân mọn cho chúa Nguyễn.
Cũng nên nhớ vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới không chính thức của Đại Việt chỉ mới đến Mô Xoài (Bà Rịa), chúa Nguyễn Phúc Tần thấy đất Đông phố (Biên Hòa Đồng Nai) nước Lục Chân Lạp sông rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu nghìn dặm nhưng chưa khai phá, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn mở mang, làm một việc mà lợi đôi ba điều. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho người đưa thư đến Nặc Ong Non (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Prei Nokor (Sài Gòn). Nặc ong Non đồng ý, kể từ đó, nhóm Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Cù Lao Phố, Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Chúa Nguyễn sau đó lập đồn dinh ở Tân Mỹ gần ngã tư Cống Quỳnh–Nguyễn Trãi ngày nay.
Năm 1698 Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh để chính thức xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất mới.
Nguyễn Hữu Cảnh chia vùng này thành huyện Phước Long (Đồng Nai) và huyện Tân Bình (Sài Gòn Bến Nghé) miền đất phía Nam. Cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thắng Tài và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ Cù Lao Phố trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế.
Sau Tây Sơn khởi nghĩa ở Bình Định 1772, Nguyễn Ánh và thân tộc năm 1774 thóat vào Gia định Đồng Nai chiêu tập dân quân chống lại Tây Sơn. Nhiều trận chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, sau những lần thóat hiểm cuối cùng Nguyễn Ánh chiếm lại Sàigòn với sự giúp sức của người Pháp năm 1789.
Năm 1778 quân Tây sơn lấy cớ người Hoa giúp Nguyễn Ánh nên đã tàn phá vùng Cù Lao Phố (nay xã Hiệp Hòa, Biên Hòa) đã đẩy người Hoa di tản về phía Tây Nam, dọc theo sông Bình Dương (về sau ngườì Việt gọi là rạch Bến Nghé, người Pháp gọi là Arroyo Chinois) định cư và lập trung tâm buôn bán gọi là Đề Ngạn, đẩy nhanh tốc độ tàn lụi của Cù Lao Phố và nhanh chóng phát triển vùng Đề Ngạn (Sài Gòn hiểu là Chợ Lớn sau này) Bến Nghé.
Sau khi chiếm lại thành Gia Định năm 1789, năm sau 1790, Nguyễn Ánh cho xây thành phòng thủ Bát Quái với sự giúp đỡ của viên sĩ quan hải quân người Pháp – Victor Olivier de Puymaniel.
Người Pháp đến 1859, tiếp đó cho xây dựng thành phố Sàigòn chung quanh vùng Thành Quy (thời Gia Long xây 1790, phá 1835) khai thác hệ thống sông rạch thiên nhiên chằng chịt phát triển một thành phố thương mại dọc theo Arroyo Chinois (kinh Bến Nghé) nhằm đáp ứng công cuộc khai triển kinh tế và tăng cường khả năng lưu thông và vận chuyển thương thuyền, hàng hóa với miền Tây và Trung.
Sự đóng góp của nguời Tàu như là đầu tàu khai thác vùng kinh Bến Nghé từ lúc di tản từ Biên hòa cũng được người Pháp thể hiện bằng cách gọi tên rạch Bến Nghé là Arroyo Chinois. Năm 1885, Trương Vĩnh Ký chỉ rõ: “Địa phận nằm giữa đường Marins (xưa là Đồng Khánh, nay là Trần Hưng Đạo) với mé rạch Chợ Lớn, là nơi trú ngụ của người Minh Hương”.
Nhà Nguyễn sửa sang trùng tu kinh rạch vùng này và khi người Pháp chiếm Gia Định Thành, khai thác tiềm năng đóng góp của người Hoa (tài chính, óc thương mại, mạng lưới kinh doanh) xây dựng và củng cố thêm cơ sở hạ tầng như xây cầu, đào kinh, rồi lấp kinh thành đường để đáp ứng với nhu cầu đô thị hóa và phát triển kinh tế không ngừng, biến Sài Gòn thành trọng tâm kinh tế ngày xưa và ngày nay.
Tổng quan hệ thống sông rạch kinh trên địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn
Khai thác vị trí đặc thù thiên nhiên của phủ Tân Bình (vùng Saigon Bến Nghé Chợ Lớn), với những vùng gò đất cao nằm vế hướng Bắc và Tây Bắc và hệ thống kinh rạch chằng chịt đổ về phía Nam đầm lầy đất trũng rồi cuối cùng ra biển Đông. Hệ thống sông nước thiên nhiên bao quanh vùng này bao gồm phía Đông có sông Bến Nghé (sông Sàigòn), phía Bắc có sông Bình Trị (rạch Thị Nghè) và phía Nam có sông Bình Dương (rạch Bến Nghé) đáp ứng nhu cầu phòng thủ và phát triển kinh tế với sự đóng góp cùa người Hoa với khả năng giao tiếp thương mại thu hút khách thương buôn từ Âu, Tân Gia Ba, HongKong, Thái, Nhật…Dưới thời Gia Long, một vị võ quan Trần Văn Học (1) vẽ bản đồ đầu tiên vùng này năm 1815. Chính quyền VNCH ghi công đặt tên ông cho con đường quan trọng ở vùng Gia Định – đường Nguyễn văn Học (lấy họ vua) đi đến các tỉnh miền Đông trước 1975, nay là Nơ Trang Long.
Hình 1A- Bản đồ Trần Văn Học 1815 với hiệu đính địa danh lấy từ Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.
Hình 1B: Vị trí thành Bát Quái và thành Phụng trên bản đồ 1A.
Sau khi phá vỡ Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) của Nguyễn Tri Phương tháng 2 1861, đô đốc Charner ban hành nghị định thiết kế quy hoạch Saigon Cholon ngày 11/4/1861 trước khi được điều động trở lại Pháp nhậm chức mới. Phó Đô Đốc Bonard thừa hành giao cho Đại Tá công binh Coffyn thực hiện quy hoạch. Coffyn đệ trình dự án cho một thành phố với 500,000 người (Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon) và được Bonard chấp thuận 30/4/1862.
Nhận định vị trí vùng thành phố được bao bọc bởi ba đường nước thiên nhiên ở phía Bắc, Đông và Nam, Coffyn thiết kế một đường nước nhân tạo- đào kinh Vòng Thành ở phía Tây- biệt lập thành phố như nằm trên cù lao nhỏ.
Hình 2 : Bản đồ Coffyn 1893 cho thấy quy hoạch thành phố Sàigòn Chợ Lớn, bao bọc bởi Rạch Thị Nghè (phía Bắc), Rạch Bến Nghé (Nam), Sông Bến Nghé (Đông) và Kinh Vòng Thành (Tây).
Hình 3: Bản đồ 3 thời VNCH năm 1962 cho thấy sông rạch bao quanh thành phố Saigon-Chơ Lớn sau khi kinh Tẽ (nhánh của rạch Bến Nghé) được đào năm 1905
Những chiếc cầu bắc ngang sông, rạch, kinh trước 1975 :
1) Cầu trên sông Sài Gòn
2) Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sàigòn
3) Cầu trên rạch Thị Nghè (kinh Nhiêu Lộc)
4) Cầu trên rạch phía Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bãi Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ
5) Kinh Vòng Thành
1 -Cầu trên sông Sài Gòn (Bến Nghé) phía Đông Sài Gòn
Sông Bến Nghé – sau gọi là sông Sàigòn có đầu nguồn ở vùng Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long trước 1975, bây giờ là Bình Phước. Bản đồ Pháp Plan de Ville 1790, 1795 còn gọi là sông Đồng Nai vì cho rằng đây là một nhánh của sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên) chảy qua Biên Hòa, xuống vùng Sàigòn, thực tế sông Đồng Nai hợp lưu với sông Sàigòn thành sông Nhà Bè rồi chảy ra biển Đông. Cửa Đông và cửa Nam của thành Phụng và Thành Quy hướng về sông Bến Nghé (xem hình 1B). Đoạn sông Sàigòn trước khi uốn khúc quanh bán đảo Thanh Đa, người địa phương gọi là sông cầu Bình Lợi. Sông khá sâu, nước chảy khá mạnh. Sông Saigon có phụ lưu sông Bến Cát, rạch Lăng có nguồn từ sông Bến Cát chạy quanh co nối với rạch Bến Bồi khu vực Ngã Năm Bình Hòa rồi chảy xuống rạch Cầu Bông ra Rạch Thị Nghè (Nhiêu Lộc).Có bốn cây cầu chính bắc qua sông Sài Gòn trước 1975.
Hình 4: Không ảnh định vị những cầu xưa trước 1975 trên sông Sài Gòn (vùng Bình Lợi-Thanh Đa)
Cầu Bình Lợi
Bắc ngang sông Saigòn đầu tiên là cầu Bình Lợi xây năm 1902 cầu sắt, sàn cầu bằng gỗ cứng, có cả đường rầy xe lửa, đây là cây cầu quan trọng nhất đi Biên Hòa và các tỉnh Miền Đông. Nhịp giữa quay được cho tàu qua, xây dựng bởi công ty Pháp Lavelois Perret (tên của công ty Eiffel do Gustav Eiffel, người kỹ sư xây tháp Eiffel sáng lập).
Hình 5: Xe lửa chạy trên cầu Bình Lợi
Hình 6: Cầu Bình Lợi xưa
Hình 7: Xe lưu thông một chiều phải đợi tới phiên
Cầu chỉ đi được một chiều, bên được lưu thông thì bên kia phải đợi, khi có xe lửa chạy thì hai bên dừng lại cho tới khi xe lửa rời cầu. Sàn xe lửa xây dựng bằng những tấm phản gỗ to, xe chạy mãi mòn gỗ có đoạn bóng loáng khi chạy xe phải cẩn thận vì trơn trợt, nhìn qua khe gỗ trên sàn cầu thấy nưóc sông Bình Lợi cuồn cuộn chảy. Có lẽ một phần vì có nhiều người đến đây nhảy cầu tự tử, người địa phương có câu “muốn chết nhảy xuống sông cầu Bình Lợi”. Cầu này trước khi có xa lộ Saigòn Biên Hòa đưa dân Sàigòn đến những vùng trái cây nổi tiếng Lái Thiêu (măng cụt, sầu riêng, chôm chôm…), hoặc lên Thủ Đức ăn nem gói bằng lá chuối, có lót lá vông để tăng độ chua mời xem Dì Hai Lò Nem, /tắm suối Xuân trường ở Dĩ An, hoặc mua bưởi Biên Hòa, lên “núi” Châu Thới”, gọi là núi nhưng thật sự chỉ cao 82m.
Hình 8: Nem Thủ Đức
Hình 9: Cầu Bình Lợi thập niên 60
Cầu Bình Triệu
Hình 10: Câu Bình Triệu, vị trí cầu Bình Triệu xem hình 4
Ngày xưa từ Sài Gòn lên Thủ Đức đi ngả Cầu Bông, xuống đường Nguyễn văn Học (Nơ Trang Long) qua Ngả Tư Bình Hòa, Ngả Năm Bình Hoà, qua cầu Băng Ky, cầu Bình Lợi, Cầu Gò Dưa và Cầu Ngang để vào Thủ Đức.
Từ sau 1961 khi có xa lộ Saigon – Biên Hoà (nay XL Hà Nội), từ Saigon lên xa lộ chạy thẳng qua nhà máy Xi Măng, qua khu vực làng Đại Học đến ngả tư Xa lộ rẽ trái đi vào chợ Thủ Đức.
Đến đầu thập niên 70 có thể đi Thủ Đức qua cầu Bình Triệu đi theo đường Phan Thanh Giản hay Hồng Thập Tự qua Ngả tư Hàng Xanh, theo Quốc lộ 13, qua cầu Bình Triệu, đến ngả tư Bình Triệu thì rẽ phải để đi về hướng cầu Gò Dưa vô chợ Thủ Đức.
Cầu Kinh
Hình 11: Kinh đào Thanh Đa (còn gọi là kinh Bình Quới) xẻ ngang vùng Bình Qưới, rút ngắn thời gian lưu thông thương thuyền từ thượng lưu đến rạch Bến Nghé, cắt ngắn 12 km đường sông
Kinh Thanh Đa (Canal de Thanh Đa) đào trong hai năm 1897 và 1898 dài 1km, rộng 40m và sâu 6m (Monographie de la province de Gia- Định 1902).
Nối trực tiếp qua bán đảo Bình Qưới. Vùng Thanh Đa xưa kia là đồng ruộng bao la, chỉ có một vài cơ xưởng kỹ nghệ nhỏ dựa vào đường sông để vận chuyển. Vùng này thường ngập úng vào mùa mưa khi nước thủy triều sông Sàigòn dâng lên.
Hình 12: Cầu Kinh qua Bình Qưới Thanh Đa
Hình 13: Không ảnh vùng kinh Thanh Đa
Cầu Sài Gòn – Cầu Xa lộ Saigon Biên Hoà
Cầu này nối đường Phan Thanh Giản (bây giờ là Điện Biên Phủ) bắc ngang sông Saigon trên xa lộ Sàigòn Biên Hoà. Xa lộ này khởi công xây dựng 1957 và được khánh thành năm 1961. Đây là một công trình có tính cách bức phá xử dụng công nghiệp làm đường của Mỹ do hãng thầu RMK-BRJ Mỹ qua kinh phí viện trợ kinh tế của USOM để mở mang vùng công nghiệp dọc theo tuyến đường qua vùng Thủ Đức Biên Hòa gọi là khu Công Nghiệp Kỹ Nghệ Biên Hoà. Phần lớn máy móc, trang thiết bị của các xí nghiệp nhà máy trong khu kỹ nghệ này khá hiện đại được nhập cảng vào từ Pháp, Nhật, Đức, Mỹ… thu hút hàng ngàn nhân công chung quanh vùng. Khu Công nghiệp Biên Hòa bao gồm nhiều ngành nghề kinh tế mà nguồn đầu tư cũng rất đa dạng. Hoạt động sản xuất công nghệ với nhiều nhóm ngành nghề: Hóa học, mỹ phẩm, cơ khí và luyện kim, vật liệu xây dựng (nhà máy Xi măng Hà Tiên ở Thủ Đức, VIKIMCO (kim khí), VINATON (tôn che mái nhà…) và hàng tiêu dùng (nhà máy giấy Cogido-An hảo, nhà máy vải dệt Vinatexco, Vimytex, công ty sữa Foremost…)
Cầu có 13 nhịp xây bằng bê tông cốt sắt, riêng ba nhịp sàn giữa thì bằng “đan” sắt có thể di chuyển được. Cầu có 8 lằng xe, chia đều hai hướng đi về.
Trong thời gian xây dựng xa lộ hai bên vệ đường là những quán xây dựng tạm thời, đủ loại thức ăn bày bán nhưng chung qui là món nhậu, cà phê, bia, mực khô nướng, hột vịt lộn, chè. Người ta có thể tìm thấy những người trẻ dùng những ống cống bằng bê tông đường kính cả hơn thước, tìm giây phút riêng tư hoặc ăn uống thư giản, nhất là lúc chiều lên.
Hình 14: Giữ an ninh đầu cầu Sài gòn
Hình 15: Cầu Sàigòn trên xa lộ Sàigòn Biên Hòa.
2 -Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sài Gòn.
Sau khi Gia Định thành thất thủ 1861, người Pháp xây dựng thành phố Sài Gòn theo quy hoạch Coffyn 1862.
Hình 16: Quy hoạch Coffyn
Điểm chính của Quy họach gồm có:
-Vị trí Thành Phố bao quanh bởi bốn đường nước như đã nói trên.
-Quy hoạch phân lô các loại đất (thổ cư, buốn bán…)
-Dùng đường Imperial (Hai Bà Trưng) làm trục Đông-Tây. Phía Đông, khu hành chánh, phía Tây khu thương mại, dịch vụ, công nghiệp..
-Quy hoạch đường xá, bến cảng
-Quy Hoạch về hệ thống nước, cung cấp nước tiêu dùng, thóat nước, rác phân…
-Quy hoạch về an ninh phòng thủ
Thực sự không biết quy hoạch này có được thực hiện toàn bộ không, nhưng điều chắc chắn là quy hoạch này đã là nền tảng cho một thành phố một thời được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông.
Khảo sát hình 2 bản đồ 2 1893 và hình 3 1962, kinh Vòng Thành đã được đào nhưng toàn kinh chưa được đem vào xử dụng vì nạn bùn lên quá nhanh ghe thuyền không di chuyển được (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19).
Hình 17: Bản đồ 1867 với chú thích về kinh rạch khu này sau bị lấp đi biến thành đường xá.
Dựa theo bản đồ khu vực Sàigòn năm 1867, người Pháp cho đào hoặc trùng tu một số đường nước trong khu vực nhằm giải quyết vấn đề giao thông và vận chuyển hàng hóa vào Saigon lúc bấy giờ.
Kinh Chợ Vải (xem bản đồ có chú thích trên A) mà người Pháp gọi là Grand Canal (kinh Lớn) được đào 1867 từ sông Saigon chạy vào đến giếng nước (khoảng bùng binh Nguyễn Huệ bây giờ) quẹo phải hợp lưu với kinh Coffyn mà chảy ra lại Sông Sàigòn, người Việt gọi là chợ Vải vì đây là nơi buôn bán vải vóc của chợ Bến Thành đầu tiên ở Sàigòn. Chợ này được xây cất năm 1860 và phá huỷ năm 1910. Sau đó chợ được xây lại ở vị trí hôm nay (trên khu đầm lầy (marais Boresse)) năm 1912. Chợ Bến Thành được khai trương tháng 3 năm 1914 thay chợ Vải. Khi chợ mới đi vào hoạt động chợ Vải trở thành Chợ Cũ, nhưng sau này khu buôn bán của chợ Cũ dời về khu đường Tôn Thất Đạm, Huỳnh Thúc Kháng và Hồ Tùng Mậu. Công trường Quách thị Trang trước chợ Bến Thành, thời Pháp gọi là công trường Cuniac, tên ủy viên hội đồng Xã Tây quản lý việc đắp đầm lầy, cũng được người Sàigòn gọi là Bùng Binh Saigon.
Vì tốc độ đô thị hóa, kinh Chợ Vải bị lấp vào khoảng 1887 sau 20 năm hoạt động.
Hình 18: Kinh Chợ Vải.
Rạch Cầu Sấu (điểm B trên hình 7 bản đồ thành phố Sài Gòn 1867)
Còn ở giữa khoảng Sở Thương chánh (Port de Commerce – Sở này có từ 1860) có một con rạch, tục danh “Rạch Cầu Sấu” vì nơi đây có một cái hầm nuôi cá sấu để xẻ thịt bán. Rạch Cầu Sấu nối liền kinh Chợ Vải tới một con rạch nhỏ nữa do Coffyn đào, về sau cả ba con kinh này đều lấp bằng trở nên đại lộ “Đường Kinh Lấp” chạy từ dinh Xã Tây tới giáp đường Công Lý và đại lộ Hàm Nghi (Boulevard de la Somme cũ). (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)
Rạch Cây Cám (D)
Trước khi đi đến kho đạn cũ, bọc theo bờ thành gần cửa Đông “Phan Yên Môn” của thành Quy, có một con kinh nhỏ chạy dài tên là “Kinh Cây Cám” chạy tới đường Lê Thánh Tôn đi ngang Sở Pháo thủ (Pyrotechnie) qua Sở Công binh thuật (Génie) là dứt. Con kinh này, khúc nối dài tới Chợ Cũ thì gọi “Kinh Chợ Vải” vì vải sồ hàng giẻ đều bán tại đây (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)
Rạch Cầu Ông Lãnh (E)
Rạch này có nguồn từ rạch Bến Nghé chạy quanh khu Cầu Quan-Cầu Muối- Cầu Kho, với nhiều nhánh tẽ mang tên địa phương của những cây cầu: cầu Kho (rạch Cầu Kho), cầu Muối (rạch Cầu Muối) Cầu Quan (rạch Cầu Quan)…
Kinh Coffyn (C)
Kinh đào Coffyn nối rạch Cầu Sấu, Kinh Chợ Vải và kinh Cây Cám.
Có thể nói, tất cả các rạch và kinh đào của khu Quận 1 (xem bản đồ hình 17) nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và giao thông cuối thế kỷ 18 và 19 đều bị lấp vì áp lực thành thị hóa và sự thay đổi phương thức vận chuyển vào cuối thập niên thế kỷ 19.
Kinh Chợ Vải đào 1867 bị lấp giai đoạn 1887-1892 thành đường Charner – sau thành đại lộ Nguyễn Huệ.
Rạch Cầu Sấu bị lấp thành đường de la Somme, sau thành đường Hàm Nghi.
Kinh đào Coffyn nối Rạch Cầu Sấu – Kinh Chợ Vải – Kinh Cây Cám, bị lấp năm 1892 để biến thành đường Bonard – sau Lê Lợi và đường D’ Espagne thành đường Lê Thánh Tôn.
Rạch Cầu Ông Lãnh thành đường Kitchener sau Abattoir (Lò Heo – vì vùng này là vùng Lò Heo cũ của Saigon Chợ Lớn trước khi có Lò Heo bên Chánh Hưng), sau thời VNCH đặt tên Nguyễn Thái Học cho đến nay.
Rạch Cầu Kho biến thành đường Blancsubé de Cầu Kho, thời VNCH đường Huỳnh Quang Tiên, sau 1975 thành Hồ Hảo Hớn. Rạch cầu Kho không phải bị lấp thành đường Phát Diệm – Trần Đình Xu (chi tiết ở Phần II).
3-Cầu trên rạch Thị Nghè phía Bắc
Dọc theo sông Sàigòn vùng Thạnh Mỹ Tây (xem hình 3 bản đồ 3), thuyền quẹo vào trái vào rạch Thị Nghè và rạch Văn Thánh. Rạch Thị Nghè nằm phía Bắc thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, đối diện với cửa Đông của Thành Quy – Bát Quái (1790-1835) và thành Phụng (1836-1859) xem hình 1B. Chú ý thành Phụng được thêm vào bản đồ Trần Văn Học năm 1815 cộng với những địa danh rút từ Gia định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức được viết vào khoảng 1820-1822 (Gia Định Thành Thông Chí – Lời Giới Thiệu).
Theo bản đồ 1815 thì rạch Thị Nghè lúc ấy gọi là sông Bình Trị (trong địa hạt Tổng Bình Trị Trung), người đia phương gọi là sông Thị Nghè, vì có cầu Thị Nghè bắc ngang sông bên hông Sở thú. Đến đoạn cầu Bông – trước đó gọi là cầu Cao Miên – thì gọi là sông cầu Bông. Rạch Thị Nghè chảy qua đoạn cầu Bông về phía Tây Bắc có cây cầu Kiệu (gọi là sông Cầu Kiệu Phú Nhuận), rồi từ cầu Mac Mahon (Công Lý) quẹo về hướng Tây đến cầu Trương Minh Giảng gọi là Kinh Nhiêu Lộc vì đường nước trở nên nhỏ hẹp.
Người Pháp sau khi chiếm được Gia định thành gọi rạch Thị Nghè là Arroyo de l’Avalanche, lấy tên con tàu đầu tiên tiến vào rạch.
Rạch Thị Nghè chảy dài từ khu vực Ba Son Thị Nghè đến Ngả Tư Bảy Hiền Tân Bình.
Hình 19: Bản đồ rạch Thị Nghè (được phóng đại từ bản đồ 1903 Plan Doumer)
Cầu bắc ngang rạch Thị Nghè
Hình 20. Cầu Thị Nghè được hoàn thành năm 1927.
Hình 20A: Cầu Thị Nghè 1965/66 by Tom Langley
Hình 21. Cầu Thị Nghè được xây lại sau khi cầu hình 20A bị xập vì tai nạn “hội chợ Thị Nghè”
Cầu này chạy sát cạnh Sở Thú (Thảo Cầm viên) trên đường Hùng Vương (Thạnh Mỹ Tây) về phía Thị Nghè, nằm trên con đường Thiên lý Bắc Nam xưa.
Cầu xây năm 1927 còn nằm trong khuôn viên Sở Thú. Sau khi cầu sập vì tai nạn Hội Chợ Thị Nghè năm 1957, cầu bị phá hủy. Cầu được xây lại nằm trên con đường mới mở nối qua Thị Nghè – Nguyễn Cảnh Chân, bằng bê tông hình 20A. Sau kiến trúc vòm cầu bị phá bỏ và cầu được xây dựng lại có hình dáng phẳng hình 21.
Qua cầu có Chợ Thị Nghè lập nên bởi bà Nguyễn Thị Khánh, cạnh nhà thờ Thị Nghè, xây dựng khoảng cuối thế kỷ 18. Bà Khánh là con ông Khâm Sai Chánh thống Vân trường hầu, là vợ ông thư ký mỗ chớ không phải vợ ông Nghè (Nghè theo tiếng Nôm có hai nghĩa: ông tiến sĩ và ông thư ký (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí)
Vùng Thị Nghè xưa là nơi có khu ruộng Tịch Điền, đàn Xã Tắc, miếu thờ Thần Nông, đàn Tiên Nông (những cơ sở này nằm trước nhà thương dưỡng lão, nay là Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè), miếu Văn Thánh, miếu thờ Đức Khổng Tử.
Trên địa bàn Thị Nghè cũng từng có một số cơ sở công nghiệp như: Hãng Chén (nay là Công ty sứ Thiên Thanh), nhà máy Dây thép Thị Nghè (nay là Công ty vật tư Bưu Điện), hãng Dầu Phú Mỹ, hãng Ô tô buýt (nay là trường Phú Mỹ), hãng Mỡ Guyonnet… Thị Nghè cũng là nơi xuất hiện một trong những nhà in đầu tiên của đất Sài Gòn: Nhà in kiêm nhà sách Joseph Nguyễn Văn Viết ra đời năm 1917
Cầu Bông
Cầu Bông được xây dựng vào khoảng 1736 (12), lúc đầu đặt tên là cầu Cao Miên (Pháp gọi là cầu Cambodge). Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân địa phương ai cũng gọi là sông Cầu Bông đến ngày nay. Dưới chân cầu Cầu Cao Miên có trồng hoa, nên tên cầu dần dần đổi thành cầu Hoa, rồi vì tránh phạm húy nên đổi là cầu Bông (Hồ Thị Hoa là tên của một hoàng hậu nhà Nguyễn gốc ở Linh Xuân Thôn, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa và là mẹ của vua Thiệu Trị. Ai là người Sài Gòn xưa có lẽ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết:
“Ai đang đi trên cầu Bông,
Té xuống sông ướt cái quần ny lông
Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về”
Cho tới bây giờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao, chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt. Con đường từ đầu cầu Bông xuống đến tòa Bố (tòa hành chánh Gia Định) cuối thế kỷ 19 gọi là đường L’inspection, sau đó đổi thành Lê Văn Duyệt (bây giờ đường Đinh Tiên Hoàng).
Cầu Bông dài chỉ khoảng 50 mét, chiều rộng 15 mét, bằng bê tông là huyết mạch giao thông nối liền Sài Gòn Chợ Lớn và tỉnh Gia Ðịnh ngày xưa cũng như ngày nay. Từ Ða Kao qua Cầu Bông vào trung tâm của tỉnh Gia Ðịnh trước khi đến khu vực cơ quan hành chính, công quyền, đến khu vực Lăng Ông và chợ Bà Chiểu. Riêng Lăng Tả quân là một nơi rất được sùng bái đối với người Tàu khắp nơi, nhất là vùng Chợ Lớn, họ đổ về đây chật cả đường vào những dịp giỗ Ông hoặc Tết Nguyên Đán.
Có thể nói Cầu Bông là cây cầu thân thuộc của dân Sài Gòn Gia Định. Từ Sài Gòn học trò sang Gia Định theo học trường nữ Lê văn Duyệt (bây giờ là Võ Thị Sáu) hay trường Nam Hồ Ngọc Cẩn (giờ là trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu) hoặc học trò từ Gia Định sang các trường học ở Đa kao Sài gòn đều phải qua đây, cộng với số người đi làm ở công tư sở hoặc giải trí ở Saigon Chợ Lớn. Con đường này là chốt quan trọng trong thời chiến trước 75, nhân viên An ninh Cảnh Sát thường đóng chốt ở hai đầu Cầu Bông để kiểm xét giấy tờ tùy thân, hợp lệ quân dịch.
Hình 22: Cầu Bông và Cầu Sắt
Rạch Thị Nghè từ cầu Bông chảy về hướng cầu Kiệu có một địa danh đặc biệt – Miễu Nổi Vạn Chài bây giờ là khu chung cư Miễu Nổi đường Vũ Huy Tần gần cầu mới Hoàng Hoa Thám bắc qua rạch Thị Nghè – Nhiêu Lộc.
Ngày xưa dân vào miễu Nổi bằng cách đi đò nhỏ qua đường hẻm trên đường Trần Quang Khải băng qua xóm Vạn Chài rồi xuống sông qua đò hoặc đi qua hẻm Trần Pháp dưới sông cầu Bông (tiếng gọi của người vùng này), trên đường Lê Văn Duyệt từ hướng Lăng Ông sang Đakao. Miễu thờ bà Thánh Mẫu, được nhiều người dân địa phương tôn sùng. Trong hình miễu nằm ở vị trí đầu cù lao. Ngày nay cả cù lao không còn nữa do kế họach đô thị hóa và chỉnh trang khu vực hai bên rạch.
Hình 23: Miểu Nổi ở Đakao
Cũng nên biết rằng có một địa danh Miễu Nổi nhưng ở Gò vấp, nằm trên một cù lao nhỏ trên sông Vàm Thuật, phụ lưu của sông Sài Gòn. Còn gọi là Miễu Nổi Phù Châu tọa lạc Phường 5 Quận Gò Vấp.
Hình 24: Miễu Nổi trên sông Vàm Thuật (người địa phương gọi là sông Bến Cát).
Cầu Sắt
Cầu này nằm gần cầu Bông cạnh rạch Cầu Bông phía bên phải chảy về hướng Bà Chiểu – Hàng Xanh.
Đây là một cây cầu sắt xưa xây 1896 bởi công ty Eiffel, sàn gỗ, là cầu dành cho tuyến xe lửa Saigon Gò Vấp qua Đakao xuống đường L’Eglise, Nhà Thờ thời Pháp vì trên đường này có nhà thờ Bà Chiểu, đây là ngôi nhà thờ lớn nhất vùng Bà Chiểu. Sau đường Nhà Thờ đổi thành Bùi Hữu Nghĩa, chạy dọc hông chợ Bà Chiểu nối liền đầu đường Lê Quang Định chạy qua ngả tư Bình Hoà, ngả tư Xóm Gà lên chợ Gò Vấp.
Vùng đất giữa đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng bây giờ) và rạch Cầu Bông thời trước là một vùng ruộng, đầm lầy thỉnh thoảng có một vùng đất cao nơi có nhà cửa xây cất, dọc theo đường thưa thớt nhà cửa, khu này gần vùng rạch Thị Nghè có tên là khu “khăn đen suối đờn”
Hình 25: cầu Sắt Đa kao
Cầu sắt Đa Kao với nhà sàn chi chít ven sông. Cảnh quan này tương tự như ở khu vực các cầu bắt ngang rạch Thị nghè (cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Kiệu…)
Cầu Kiệu
Hình 26: Cầu Kiệu (không ảnh by Raymond Cauchetier 1955)
Rời cầu Kiệu đi về Saigon sẻ qua một cái chợ, ngày xưa gọi là chợ Xã Tài, chợ bắt đầu là một nhóm bạn hàng ngồi tụ tập lộ thiên và có tên là Chợ Mới. Vì thế Cầu Kiệu thời ấy có tên là cầu Chợ Mới (xem hình 1B). Sau có ông Lê Tự Tài, xã trưởng Phú Nhuận, quyên góp tiền của bà con bán hàng, để mua vật liệu xây dựng, nhà lồng chợ bằng tre, lá. Mấy năm sau, mới thay bằng cột gỗ, lợp ngói, và được người dân gọi là Chợ Xã Tài. Đầu thế kỷ 20, người ta cho xây mặt tiền chợ nhà lồng và đắp lên đó mấy chữ nổi: “Marché de Xa Tai”. Nhưng tồn tại chẳng bao lâu, thì được thay bằng chữ “Marché de Phu Nhuan”, tức Chợ Phú Nhuận hiện nay. Đây là một trong các ngôi chợ lâu đời nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh. (Sài Gòn vang bóng, sách đã dẫn, tr. 137). Xã Phú nhuận thời ấy là một xã lớn có đền 72 ngôi đền chùa (Trương Vĩnh Ký trong Saigon et ses environs), nhưng đa số không còn tồn tại đến ngày nay.
Cách cầu Kiệu không xa, có lăng Đô-đốc Võ Di Nguy, lăng Ông Trương Tấn Bửu, một danh tướng thời Gia Long Minh Mạng, một thời là Tổng Trấn Gia Định Thành.
Cầu Công Lý – thời Pháp Cầu Mac Mahon
Hình 27: Cầu Công Lý
Cầu Công Lý nằm trên tuyến đường chính đi từ phi trường Tân Sơn Nhất vào trung tâm thành phố đi ngang qua Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất) chạy thẳng ra Bến Chương Dương.
Thời Pháp gọi là Cầu Mac Mahon (Mặt Má Hồng), gần cầu có ngôi chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa kiến trúc theo kiểu chùa Miền Bắc có cổng Tam quan. Chùa bắt đầy xây cất 1964 và xong năm 1971.
Cầu này cũng được biết qua sự kiện Nguyễn Văn Trổi năm 1964 đặt bom mưu sát Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert MacNamara, chuyện không thành, Nguyễn văn Trổi bị bắt và bị tử hình.
Hình 27A: Chùa Vĩnh Nghiêm với cổng Tam Quan
Cầu Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ)
Hình 28 Cầu Trương Minh Giảng, toà nhà phía sau là viện Đại học Vạn Hạnh
Hình 28A Cổng viện Đại Học Vạn Hạnh
Cầu này ngày xưa không có tên, tuy nhiên có tài liệu cho rằng đây là cầu Lão Huề. Khảo sát không ảnh và bản đồ Trần Văn Học năm 1815, cầu Lão Hoà (Huề) chỉ có thể nằm cuối nguồn của rạch Thị Nghè ở vùng Hoà Hưng, Tân Bình. Theo Trịnh Hoài Đức Gia-Định Thành Thông Chí thì cầu Huệ cách cầu Kiệu 6 dậm rưỡi và ở cuối nguồn sông Bình Trị (rạch Thị Nghè), là nơi đầy dẫy những ao vũng. Theo Bình Nguyên Lộc đường Trương Minh Giảng với cây cầu Trương Minh Giảng chỉ mới có từ cuối năm 1938.
Như vậy cầu Lão Huề (Hòa) không thể nào là tên xưa của cầu Trương Minh Giảng. Dưới thời VNCH cầu được xây lại bằng bê tông cốt sắt đặt tên cầu Trương Minh Giảng vì nằm trên đường cùng tên, một vị danh tướng thời nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người “văn võ song toàn”, là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một võ tướng vừa là một sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử giám. Ông mất năm1841. Mộ ông toạ lạc ở một vị trí khiêm nhường ở hẻm đường Nguyễn Văn Nghi, Gò Vấp.
Đi về hướng Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất) trước khi đến cầu có chợ Vườn Xoài nằm bên phải, gần đến cầu thấy có trồng rau muống. Đường Trương Minh Giảng bắt đầu ở ngã ba Trần Qúy Cáp (nay Vỏ Văn Tần)-Trương Minh Giảng. Đường Trương Minh Giảng đổi tên thành đường Trương Minh Ký khoảng chợ Vườn Chuối hướng Tây Bắc. Cũng nên biết Trương Minh Ký học trò tâm đắc của Trương Vĩnh Ký, có hiệu là Thế Tải, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam, ông cũng là nhà báo, nhà giáo đóng góp quan trọng trong việc truyền bá và phát trển nền văn học Quốc Ngữ Việt Nam. Tổ tiên của ông là danh tướng Trương Minh Giảng. Lăng mộ ông trong tình trạng hoang phế hiện còn ở hẽm đường Nguyễn Văn Nghi, Gò vấp gần mộ Trương Minh Giảng.
Toà nhà cận cầu là Đại Học Vạn Hạnh. Khuôn viên Viên Đại Học nay là trường Đai học Sư Phạm và chùa Pháp Hoa thuộc GHPGVN.