NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT DUY NHẤT MẶC ÁO VÀNG TRONG TRIỀU ĐÌNH
Năm 1932 vua Bảo Đại về nước sau mười năm học tập ở Pháp. Bảo Đại (sinh 1913) là một ông vua đẹp trai, có Tây học, ham thích thể thao, săn bắn và âm nhạc, là hình ảnh lý tưởng của con gái Việt Nam, đặc biệt là con gái Huế thời bấy giờ và mãi nhiều năm về sau. Nhiều nhà quyền quý, có con gái đều nhắm đến vị Hoàng đế trẻ tuổi này.
Sau ngày Bảo Đại về nước, bà Từ Cung – mẹ đẻ của vua Bảo Đại, đã chọn cô Bạch Yến con ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê ở làng Chí Long (Phong Điền, Thừa Thiên) để chuẩn bị tiến cung. Cô Bạch Yến được dạy đàn ca, thơ phú, dạy ăn nói, đi lại cho đúng với lễ nghi trong cung cấm. Hằng ngày cô được tắm gội bằng sữa dê để giữ làn da đẹp. Nhưng rồi thật bẽ bàng, cuối cùng cô Bạch Yến đã không được Bảo Đại lưu ý.
Bởi vì Bảo Đại đã yêu cô Nguyễn Hữu Thị Lan (sinh 1914), con một nhà hào phú Nam bộ là ông Nguyễn Hữu Hào (gốc Gò Công). Bà còn là cháu ngoại ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ – người giàu nhất Nam bộ đầu thế kỷ XX, Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương.
Tuy nhiên, với quyết định này của nhà vua, đã khiến Thái Hậu Từ Cung vô cùng phiền lòng, còn triều đình như phải đối mặt với một cơn sóng dữ.
Bà Từ Cung bày tỏ không đồng tình việc Bảo Đại đòi lấy cô Nguyễn Hữu Thị Lan, vì tuy là con nhà giàu nhưng cha mẹ không có chức tước gì trong triều đình. Huống chi lại theo đạo Công giáo!.
Bảo Đại còn cứng rắn thưa với mẹ rằng, nếu không lấy được Nguyễn Hữu Thị Lan thì thà ở vậy suốt đời. Vua cũng cam kết Hoàng hậu sẽ thắp nhang cúng vái tổ tiên theo đúng phong tục tập quán của người Việt.
Người đứng đầu Tôn Nhân Phủ là Tôn Thất Hân lại càng phản đối kịch liệt. Tôn Thất Hân nêu lý do: “Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được”.
Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu”.
Tôn Thất Đàn, cựu thượng thư bộ Hình định thảo một kiến nghị có chữ ký của các đại thần đứng đầu các Bộ và các nha phủ quan trọng trong triều yêu cầu Nhà vua nên từ hôn với Nam Phương. Bản thân ông và bạn bè còn nghĩ đến buộc Nam Phương bỏ Công giáo theo đạo Phật pha trộn với đạo Lão đang thịnh hành ở Việt Nam nếu cứ lấy Bảo Đại. Vị cựu thượng thư còn nói thêm có một vài vị quan quyền cao đức trọng tỏ ý thà chết còn hơn được thấy việc hôn nhân này vi phạm những nguyên tắc của nhà nước quân chủ.
Nhưng cuối cùng do sự quả quyết của Bảo Đại, bà Từ Cung và các quan đình đành phải nghe theo vua.
Ngày 20/3/1934, hôn lễ được tổ chức tại Huế. Khi đó, Bảo Đại 21 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan 19. Bốn ngày sau, lễ Tấn Phong Hoàng Hậu rất trọng thể ở Điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan tước Nam Phương Hoàng Hậu.
Việc phong hoàng hậu này cũng lại là một biệt lệ, vì bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế, là 2 vị Hoàng hậu duy nhất trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng hậu khi còn sống.
Bảo Đại giải thích hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì của hoàng hậu mới là Nam Phương, có nghĩa là “Hương thơm của miền Nam” và tôi đã ra một chỉ dụ, đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng, là màu dành riêng cho Hoàng đế”.
Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách, giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai hoàng tử và ba công chúa.
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963, đám tang được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa thớt, vắng vẻ. Bên ngôi mộ đơn sơ có tấm bia khắc chữ Pháp:
CI REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN
(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, nhũ danh Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan)