Có xe kéo tay thì phải có người kéo và cái tên “anh xe” có từ khi phương tiện này xuất hiện ở Hà Nội. Cuốn “Ở Bắc Kỳ, ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin notes et souvenirs – xuất bản tại Hà Nội năm 1925) của Công sứ Bonnal (1883 – 1885) kể rằng, trong một chuyến đi Nhật, ông này đem về hai chiếc xe tay hiệu Djinnrickshas (pousse pousse – xe tay kéo), một chiếc để dùng còn chiếc kia tặng Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ. Sau đó, thuộc cấp của ông sai người làm giống như thế để họ dùng. Những người Châu Âu ở Hà Nội cũng bắt chước làm theo để dùng riêng. Đó là chiếc xe hòm có sàn để ngồi cao hơn trục bánh xe, bánh xe bằng sắt, lúc đó đường sá Hà Nội vẫn lổn nhổn gạch đá, duy nhất chỉ có phố Paul Berts (Tràng Tiền ngày nay) trải đá dăm nên rất dễ lật. Sự xuất hiện của xe tay dẫn đến một sự kiện quan trọng, Công sứ Bonnal đã cho phá bỏ các cổng cùng những cánh cửa vuông nặng trịch mà người Hoa dựng lên ở các phố họ sinh sống nhằm ngăn cách với khu người Việt để xe tay có thể ra vào dễ dàng mà không sợ tai nạn. Nhu cầu dùng xe tay tăng cao làm viên quan thuế đã nghỉ hưu là Leneven nhập xe từ Nhật và Hồng Công về cho thuê và trở nên giàu có. Năm 1890, Công ty Verneuil et Gravereand ở phố Rialan (nay là Phan Chu Trinh) đã sản xuất cả xe bánh sắt và xe bánh cao su, loại bánh sắt được bán về các tỉnh lân cận.
Phu kéo xe tay ở Hà Nội đầu thế kỷ XIX. |
Việc mở mang các tuyến đường giao thông được chính quyền thành phố làm khá nhanh, tính đến ngày 1-1-1902, Hà Nội có 52km đường, trong đó hơn 10km đã rải đá và đây là yếu tố làm tăng nhanh chóng số lượng xe kéo. Theo văn bản thông qua quyết toán thuế do Công sứ Baille ký ngày 10-1-1902, số tiền thuế xe tay ở Hà Nội thu được năm 1897 là 26.530 đồng, năm 1898 là 32.165 đồng, năm 1899 là 40.450 đồng và năm 1901 là 43.370 đồng. Trước đó ngày 15-3-1892, Trú sứ Chavassieeux ký mức thuế một năm cho một chiếc xe tay là 60 đồng, như vậy năm 1897 có 442 xe, đến năm 1901, Hà Nội có tới 728 chiếc và như thế cũng có từng ấy người phu xe.Còn con sen có lẽ là phiên âm từ jeune servante trong tiếng Pháp nghĩa là người hầu trẻ, người giúp việc. Cũng như anh xe, con sen có từ cuối thế kỷ XIX, phần lớn trong số đó xuất thân từ nông thôn, ra thành phố tìm việc nhưng vì không có nghề nên họ chỉ có thể làm các công việc giản đơn trong đó có giúp việc gia đình. Sau khi quân Cờ Đen bị giải giáp phải rời khỏi Hà Nội, rồi Hà Nội (thời kỳ này rất hẹp, phía nam giới hạn đến phố Tràng Thi, phía tây chỉ đến đầu Thụy Khuê hiện nay và phía bắc và đông là đê sông Hồng) trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, thì nhiều công chức, sĩ quan Pháp đưa vợ con đến Hà Nội sinh sống. Vì chưa quen ở xứ thuộc địa nên họ cần có người giúp việc như đi chợ, khâu vá, bồi bếp… để cuộc sống của họ thuận tiện hơn; trong khi đó, dân ngoại ô, dân các tỉnh không có ruộng lại cần việc làm và thế là cung cầu gặp nhau, dẫn đến nghề giúp việc xuất hiện. Thế nhưng nhiều gia đình người Pháp vẫn chưa tin tưởng vào người mình sẽ thuê nên họ đã nhờ các cha cố ở Nhà thờ Lớn giới thiệu. Tuy nhiên ngôn ngữ vẫn là rào cản lớn vì thế cố Ân (tức cha cố Dronét) dùng ngôi trường 2 tầng ở phố Nhà Chung mở lớp dạy tiếng Pháp miễn phí cho họ.Thương mại phát triển, nhiều người Việt trở nên giàu có và họ cũng có nhu cầu thuê người giúp việc, thế nên đầu thế kỷ XX, số người giúp việc tăng lên đáng kể, nhiều gia đình mua xe tay và nuôi anh xe khỏe mạnh trong nhà để đưa ông chủ, bà chủ đi chơi, công việc, đưa con cái họ đi học… Cũng như con sen, chị khâu, u già… họ ở dãy nhà ngang của gia chủ và được trả lương theo tháng. Vào cuối những năm 1920, nhu cầu tìm việc ngoài thành phố ngày càng tăng vì Hà Nội được mở rộng về phía nam và phía tây nên đã xuất hiện những phố đưa người và một trong những phố đó là phố Mới (nay là Hàng Chiếu). Từ mờ sáng cho đến chiều tối, con phố này luôn có người tìm việc đứng chờ trong đó có chị em muốn “bán sữa” (vì con họ sau khi sinh đã chết). Xã hội văn minh nên nhiều phụ nữ cả Tây lẫn ta muốn giữ bộ ngực sau khi sinh con đã thuê họ về làm vú nuôi. Thậm chí nhiều gia đình Hoa kiều nuôi họ để hằng ngày vắt sữa cho cha mẹ già uống.
Con sen, anh xe, u già, chị khâu… xuất hiện trên rất nhiều bài báo xuất bản trước năm 1954. Từ chuyện họ bị coi khinh hay lấy cắp tiền bạc đến chuyện chủ nhà có tình ý… Những con sen khép nép ở quê nhưng ra đô thị sẵn sàng đồng ý ngủ với đàn ông ở phòng trọ, anh xe có vợ ở quê song sẵn sàng bỏ tiền thuê nhà cho các cô bán hàng rong để thi thoảng chạy qua “cải thiện”… tất cả đều phơi trên mặt báo. Phóng sự dài kỳ “Cơm thầy, cơm cô” của nhà văn Vũ Trọng Phụng tuy không nêu cụ thể phố nào nhưng ai cũng biết ông viết về các quán cơm đồng thời là nhà trọ ở phố Hàng Chiếu. Phóng sự khiến những ai quan tâm đến gia phong, lễ giáo phải lo lắng bởi sự xuống cấp trong lối sống đô thị của chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Sự tha hóa đạo đức không chỉ có trong giới làm ăn, buôn bán mà còn có cả ở tầng lớp người giúp việc. Do kẻ đi ở ăn cắp của chủ rồi bỏ trốn khiến cảnh sát cũng khó mà truy tìm, nên từ năm 1935 có một người tên là Vy ở 87B phố Hàng Chiếu đã có sáng kiến bắt con sen, phu xe phải chụp ảnh, khai tên tuổi, quê quán và phải điểm chỉ vào. Năm 1936 có hàng chục người làm nghề “đưa người” ở phố Hàng Chiếu.
Không chỉ xuất hiện trên các trang báo, họ còn là đề tài của các nhà văn, truyện ngắn “Thanh! Dạ” cho thấy sự khốn khổ của con sen, không biết nghe ai và nếu nghe người này thì bị người khác trong gia đình ấy hành hạ. Truyện “Quyền chủ” phản ánh chủ có sai thì họ vẫn đúng vì họ là chủ, truyện “Tờ giấy 100” kể chuyện vợ một anh giàu có đổ cho người ở lấy cắp tiền. Nhưng thương cảm nhất chính là truyện “Người ngựa ngựa người” cũng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, thân phận anh xe cũng là thân phận của kẻ đi ở, lại gặp gái mãi dâm cùng cảnh ngộ bế tắc không lối thoát. Trong hồi ký của Nguyễn Bắc (Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội 1954-1976) “Thành phố bị chiếm”, ông kể về bà vú ở chợ Hàng Da đã cứu thoát ông khỏi mật thám vào năm 1952.
Không phải ai làm anh xe, con sen, u già, vú em… đều có cuộc sống bất hạnh, nhờ có mức lương ổn định nhiều người đã cải thiện được cuộc sống của gia đình họ ở quê. Thậm chí có nhiều người từ đi ở đã trở thành giàu có nhờ may mắn, ví dụ như chủ hiệu nem Sài Gòn Tế Mỹ ở đầu phố Hàng Gai xuất thân từ nhà quê ra Hà Nội làm thuê và đi ở cho một hiệu nem đầu tiên ở phố Hàng Quạt do một người vợ Tây góa chồng mở. Một thời gian sau bà này bị liệt, anh này chăm sóc tận tình nên bà ta nhận làm con nuôi rồi nhường cửa hàng cho. Hay từ là người dọn hàng ở chợ Đồng Xuân, một người đàn ông ở Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã trở nên giàu có nhờ may mắn và ý chí đã sở hữu cả khách sạn và quán ăn lớn ở phố Hàng Trống.
Sau năm 1954, chế độ mới coi việc nuôi người làm trong nhà là giai cấp bóc lột nên đã cho họ về quê.
Tuy nhiên, đến thời kỳ đổi mới thì mọi chuyện đã khác, quan niệm về người giúp việc không còn nặng nề như thời bao cấp. Các gia đình có điều kiện nhưng neo người đã thuê người ở nông thôn giúp việc cho gia đình. Năm 1994, VTV phát sóng bộ phim truyền hình dài tập “Oshin” của Nhật, phim kể về sự vươn lên của một cô gái tên là Oshin từ đi ở trở thành bà chủ và thế là từ đó xuất hiện cái tên “ô sin” dân gian gọi chung những người giúp việc nhà. Và cũng như trước năm 1954, nghề giúp việc thời nay cũng có biết bao nhiêu chuyện bi hài, hay dở khó mà kể hết…