Ban đầu, mũ rơm được làm đơn giản từ những sợi rơm như nùn rơm nhưng bện nhỏ hơn và uốn theo hình nón, có nhiều cỡ cho từng lứa tuổi. Mũ rơm giúp cho người đội hạn chế sự sát thương của bom bi. Ngoài mũ rơm, những em học sinh thời chiến còn được cha, mẹ trang bị cho những nùn rơm nhỏ, đeo sau lưng giống như cái khiên… Những sợi rơm vàng thân thuộc đó đã trở thành hành trang cùng các em tới trường.
Ngay từ năm 1964, khi Mỹ tiến hành đánh bom miền Bắc, những chiếc mũ rơm đã được phổ biến rộng rãi. Những người từng sống và lớn lên trong thời kỳ đó hẳn ai cũng nhớ hình ảnh chiếc mũ rơm trên đầu học sinh khi cắp sách đến trường dưới làn bom đạn.
Chiếc mũ rơm dày, nặng và túi thuốc cá nhân trên vai mỗi học sinh khi đến trường vào những năm chiến tranh đã trở thành quen thuộc, đã tạo nên những cảm xúc cho những nhà thơ để viết nên những vần thơ đẹp. Nhưng trên hết, hình ảnh những trẻ em đầu đội mũ rơm đến trường đã cho thấy: Các em đã được chuẩn bị tâm thế để “sống chung với bom đạn chiến tranh”, biết tự phòng, chống để tự cứu mình. Có lẽ do chiến tranh hiện diện quá lâu nên trở thành quen, không còn là nỗi ám ảnh, âu lo cho mọi người, kể cả với những em nhỏ. Họ đã bình tĩnh đi qua chiến tranh…