Việt Quốc Công Lý Thường Kiệt – Phần 1: Bình Chiêm
NGƯỜI ANH HÙNG “PHÁ TỐNG BÌNH CHIÊM”, MỘT CUỘC ĐỜI BI THỐNG
Tôi sẽ bắt đầu bằng một nhận định. Các bạn hãy nhớ nhận định này, và hiểu thêm về lịch sử dân tộc. Lịch sử dân tộc này có 2 vị hoạn quan đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong dòng chảy của đất nước, đây là hai người anh hùng đã bẻ lái lịch sử. Là khai quốc công thần sáng lập triều đại, là người anh hùng trị nước, là đại tướng quân đánh dẹp. Người đầu tiên là tả quân Lê Văn Duyệt – khai quốc công thần nhà Nguyễn, người đánh bại Tây Sơn trên đầm Thị Nại, vị tổng trấn đã tạo nên bộ mặt của Gia Định ngày đầu, nền tảng cho Saigon – TP.HCM của ngày hôm nay. Và người thứ hai, vị anh hùng đánh giặc xâm lăng của dân tộc: Thái Úy Lý Thường Kiệt.
Bây giờ, ta sẽ nói một chút về đề tài hoạn quan. Quan điểm của chúng ta về hoạn quan thời phong kiến đôi khi lệch lạc, một phần chính vì các bộ phim truyền hình Trung Quốc mà ta hay được xem. Đó hoặc là những kẻ bệnh hoạn, những kẻ tham ô, hoặc những kẻ nhũng loạn triều chính người người đòi tru diệt. Đấy là Triệu Cao, là Thập Thường Thị, là Ngụy Trung Hiền…
Hoạn quan Việt Nam thì sao? Cũng như nhiều nhân vật lịch sử thời nhà Nguyễn, lịch sử chúng ta đã lãng quên nhiều vị hoạn quan rất giỏi. Ngoài hai người uy vũ văn võ song toàn Lê Văn Duyệt và Lý Thường Kiệt ở trên. Hôm nay, tôi sẽ cho các bạn hai cái tên nữa. Một người là kiến trúc sư, và người kia uy vũ chẳng kém Lý Thường Kiệt hay Lê Văn Duyệt, nhưng đã rớt lại trong dòng chảy dân tộc.
1/ Nguyễn An: tôi không bất ngờ nếu các bạn tròn mắt “Ủa ai đây? Nghe lạ hoắc vậy ta?” Nếu tôi có chút quyền trong tay, tôi cho cái tên này trở thành “Ông tổ của Kiến trúc sư Việt Nam” không chừng. Nhưng mà chắc không đâu. Bởi điều ta tự hào tới đây mang tính chất “gốc Việt” nhiều hơn là tính chính thống.
Người mà các bạn vừa phát âm ra đấy chính là vị TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ đã xây dựng TỬ CẤM THÀNH BẮC KINH dưới thời Minh Thành Tổ. Khi các bạn qua du lịch Trung Quốc hay các bạn du học sinh Việt Nam ở Trung Quốc, các bạn hãy nhớ rằng, cửa Chính Dương, còn gọi là Tiền Môn, ở phía Nam quảng trường Thiên An Môn hiện tại chính là do ông xây dựng. Quốc Học (Quốc tử giám) giờ là thư viện Bắc Kinh cũng do ông xây nên. Bắc Kinh hôm nay có dấu ấn của người Việt ta.
Kiến trúc sư Nguyễn An quê gốc Hà Đông (Hà Nội ngày nay). 16 tuổi tham gia thi công thành Thăng Long. 26 tuổi, khi đất nước bại trận trước nhà Minh. Ông và hàng trăm chàng trai trẻ, những nhân tài của đất nước này bị Trung Quốc hốt về và bị thiến để làm hoạn quan (cái nhục mất nước nó ghê gớm lắm). Dù làm hoạn quan, nhưng đức tính khiêm tốn, thanh liêm, và biệt tài tính toán đã giúp ông lọt vào mắt xanh của Minh Thành Tổ. Và tài năng kiến trúc ấy đã nở rộ như mặt trời chính ngọ.
Sau này, nhà sử học Trung Quốc là Trương Tú Dân còn phải viết ra “An không chỉ riêng giới công trình đáng ngưỡng mộ mà thị dân Bắc Kinh cũng nên uống nước nhớ nguồn, kỷ niệm chớ quên.”
Và ông là người Việt Nam bị bắt làm tù binh.
2/ Hoàng Ngũ Phúc: Ai là người đã khiến cho Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ phải sợ hãi một phép? Ai là người khiến cho Tây Sơn phải dùng bạc vàng xin hàng để tránh họa tiêu diệt? Ai là người đầu tiên vượt qua Lũy Thầy Đào Duy Từ nổi tiếng để vượt qua sông Gianh tiến vào địa phận của chúa Nguyễn? Câu trả lời chính là Hoàng Ngũ Phúc – vị đại tướng số 1 của Chúa Trịnh. Và ông cũng là một hoạn quan. Hoàng Ngũ Phúc là một cái tên đã bị rớt lại trong dòng chảy của dân tộc. Dù võ nghệ của ông, mưu kế, tính thanh liêm, sự trung thành của ông là đáng để ngã mũ.
Tôi xin dừng lại ở Hoàng Ngũ Phúc rất ngắn ngủi. Ấy không phải là vì không thể viết hết ý. Mà để dành cho các bạn một bài viết xứng đáng hơn đang đợi các bạn ở tương lai gần. Hãy quay lại một ngày, và đọc về vị tướng quân đầu tiên vượt qua Lũy Thầy Đào Duy Từ này.
***
Tôi đã bắt đầu bài viết bằng những câu chuyện về hoạn quan, để nói với các bạn 2 điểm:
– Đầu tiên, để bạn xem chuyện hoạn quan lập nên kỳ công cho đất nước này là một chuyện hiển nhiên, hạn chế những bình luận về ông như thể là phát hiện mới (điều tôi đã gặp rất nhiều ở bài viết Lê Văn Duyệt trước đó). Đấy là điểm đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Những người hoạn quan công lao rất lớn và đều vì dân vì nước.
– Thứ hai, hãy nhớ để tự hào: rằng ngoài những trang sử vẻ vang chống giặc ngoại xâm, ta đã có những con người tài giỏi thế nào, hơn người thế nào, dù họ khiếm khuyết. Hoạn quan của ta không phá bậy phá bạ như hoạn quan Trung Quốc. Mà ngược lại, còn xây dựng đất nước. Cũng như trong thế giới hiện đại bây giờ, những người khiếm khuyết đôi khi toàn vẹn hơn nhiều lần những người bình thường khác.
***
Bây giờ, ta hãy đến với nhân vật chính của bài viết, câu chuyện về Thái Úy Lý Thường Kiệt.
1. ĐỜI TƯ
Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, ông vốn thuộc họ Ngô, tên thật là Tuấn, tự là Thường Kiệt, sau được ban quốc tính (được mang họ nhà vua), nên gọi là Lý Thường Kiệt. Họ Ngô chắc khiến bạn có chút liên tưởng, không sai chút nào. Ngô Tuấn chính là cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập – hoàng tử trưởng của Ngô Quyền: người anh hùng đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt 1000 năm Bắc Thuộc. Dòng họ Ngô đã sinh ra hai người anh hùng ở hai thế kỷ khác nhau đánh tan quân xâm lược phương Bắc.
Đây ta tạm gọi là “hổ tổ sinh hổ chắt”.
Các bạn mang họ Ngô hãy tự hào về hai vị anh hùng của mình nhé!
Ngô Tuấn dung mạo đẹp đẽ, khôi ngô, và từng được phong “Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Không chỉ có vẻ ngoài, Ngô Tuấn còn là một người thông minh và ham học hỏi. Văn võ song toàn. Đọc binh pháp Tôn Tử từ nhỏ, lại giỏi bắn cung, cưỡi ngựa. Tuổi trẻ tài cao như thế, lại thêm vẻ ngoài tuấn tú, một người có thể coi là hoàn hảo. Đúng là “tài hoa chi lắm cho trời đất ghen”. Một người hoàn hảo như thế lại trở thành hoạn quan?
Câu hỏi này sẽ là nghi vấn ngàn đời.
Bài viết hôm nay của tôi sẽ là một cách nhìn mới được kiến giải qua những phân tích sự kiện đã có với hiểu biết cá nhân.
Ngô Tuấn thời trẻ có một mối tình oan nghiệt với một người con gái tên là Dương Hồng Hạc – mỹ nhân thuộc dòng họ Dương. Người sau này trở thành hoàng hậu Thượng Dương. Mối tình đó không thể đi đến cuối cùng, vì Dương Hồng Hạc được gả cho thái tử Lý Nhật Tôn.
Thời đầu phong kiến Việt Nam có hai dòng họ lớn, đấy là họ Dương và họ Ngô. Mối uyên nguyên từ Ngô Quyền – Dương Đình Nghệ vào thế kỷ IX kéo dài đến Ngô Tuấn – Dương Hồng Hạc của thế kỷ XI, nhưng Ngô Tuấn không có cái quyền nghiêng trời lệch đất như Ngô Quyền để quyết định cho vận mệnh của mình. Sự chấm dứt mối tình với hoàng hậu Dương Hồng Hạc đã dẫn đến một bi thương về đợt “hoạn quan” sau này của ông. Dương Hồng Hạc không được Lý Thánh Tông để ý, và bà muốn Lý Thường Kiệt có tác động trong cuộc “thâm cung nội chiến” này. Đứng giữa tình thế hung hiểm như vậy, Lý Thường Kiệt bắt buộc phải lựa chọn. Đi sai một bước thì lưỡi gươm của cả hoàng thượng và hoàng hậu đều có thể đặt lên đầu ông.
Việc ông trở thành hoạn quan có thể nói là bởi vì ông không muốn trở thành cái gai trong mắt hoàng thượng, cũng là lời cáo chung đầy bi thống của ông đối với Dương Hồng Hạc, và hơn cả, là lời khẳng định rõ ràng nhất xin đứng ngoài cuộc trong câu chuyện tình yêu và mối quan hệ lằng nhằng chốn hậu phi này.
Cho dù cái giá phải trả là đắt, quá đắt!
Đấy là lý do tại sao một chuẩn tài mạo song toàn, dung mạo tựa ngọc như Lý Thường Kiệt lại trở thành hoạn quan. Bởi vì sinh mệnh của bản thân và cái chí lớn chưa làm gì nên sự nghiệp, không thể chết vì một mối tình thời niên thiếu trong cuộc chiến chốn quan trường và chốn hậu cung.
Sự sủng ái mà thái tử Lý Nhật Tôn (sau này là vua Lý Thánh Tông) đã dành cho ông như một sự bù đắp lớn lao cho cái hy sinh khủng khiếp ấy của người đàn ông văn võ song toàn, dung mạo đẹp đẽ đó: không chỉ được đổi thành họ Lý mà các chức danh cao quý nhất đã lần lượt đến với Ngô Tuấn. Và Lý Thường Kiệt đã đáp lại bằng trí tuệ và võ lược của mình để giữ vững cho thiên hạ nhà Lý.
Một bằng chứng nữa, khi vương phi Ỷ Lan và hoàng hậu Thượng Dương có cuộc đấu đá cho vị trí nhiếp chính. Lý Thường Kiệt đã chọn Ỷ Lan. Điều này cho thấy tâm tư cẩn mật của ông là ra sao, và tầm nhìn của ông. Nên nhớ khi ấy Thượng Dương Hoàng Hậu có sự ủng hộ của thái sư đầu triều Lý Đạo Thành. Tư duy chính trị nhạy bén ấy là lý do cho ông trở thành vị quan đầu triều nắm giữ mọi chức vị quan trọng và luôn được tín nhiệm. Tầm nhìn của ông, mọi nước cờ đều là lựa chọn không chỉ đặt đại cuộc lên hàng đầu mà còn giữ cho ngày ông mất, là mồ yên mả đẹp.
Ngô Tuấn Lý Thường Kiệt là một vĩ nhân, bởi chỉ có vĩ nhân trăm năm có một người như thế, mới đánh đổi được và làm được những điều thống thiết đến như vậy, bi tráng đến như vậy, và tạo nên sự nghiệp anh hùng ngất trời mà ta sẽ biết sau bài này.
2. VÕ LƯỢC
Có lẽ khi chúng ta được dạy về Lý Thường Kiệt, các bạn thường nghe kể về kỳ tích đánh Tống và bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”. Tôi sẽ không bắt đầu bằng câu chuyện ấy, tôi sẽ dẫn dắt các bạn đến với câu chuyện về kỳ tích khác của vị tướng uy vũ này. Đấy là “Bình Chiêm”.
Vào năm 1069, lãnh thổ đất nước ta kéo dài đến tỉnh Hà Tĩnh là dừng lại. Đấy là lãnh thổ của Đại Việt. Lãnh thổ của Chiêm Thành kéo dài từ Quảng Bình cho đến Ninh Thuận bây giờ. Tôi dùng địa danh hôm nay nên chắc các bạn mường tượng ra rồi.
Thời điểm đó, Đại Việt là một quốc gia hùng mạnh và ra lệnh cho Chiêm Thành phải thần phục. Vua Chiêm khi đó là Chế Củ thay đổi chính sách ngoại giao và muốn thần phục nhà Tống, dựa vào nhà Tống để chống đối Đại Việt.
Vua Lý Thái Tông không chấp nhận điều ấy, quyết định Nam Tiến. Đại tướng tiên phong Lý Thường Kiệt từ Thăng Long đi đường thủy, dẫn 5 vạn quân với 2000 chiến thuyền bằng mọi giá phải khiến Chiêm Thành thần phục. Tại nơi đây, ta được chứng kiến cảnh “hổ vào chuồng dê”. Quân Chiêm Thành không có ai đáng là đối thủ của Lý Thường Kiệt, thế của ông như chẻ tre, đánh đâu thắng đấy.
Ngày 24/2/1069, vua Lý ThánhTông hạ chiếu tấn công Chiêm Thành.
– 10 ngày kể từ khi rời Thăng Long, đưa quân vào hải phận Chiêm Thành.
– Sau 15 ngày, Lý Thường Kiệt có mặt tại cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình ngày nay). Dừng ở đây một chút nhé. Bạn có thấy hành quân thần tốc không? Đã nắm sử thời nhà Lý ở đây, bạn sẽ dễ dàng hiểu về cuộc hành quân của vua Quang Trung. Lý do vì sao ông có thể hành quân nhanh như thế để ra tiêu diệt Tôn Sĩ Nghị, cũng chính từ đường thủy mà ra.
– Cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Chiêm Thành. Một cuộc đụng độ xảy ra, Lý Thường Kiệt dễ dàng bẻ gãy tuyến phòng thủ thứ nhất của Chiêm Thành.
– Sau 19 ngày, quân Đại Việt đã kéo tới Quy Nhơn. Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Vào trận, sau vài nốt nhạc, Lý Thường Kiệt chém đầu tướng Chiêm là Bố Bì Đà La rồi vượt qua sông Tu Mao, thẳng tiến đến kinh đô Chiêm Thành. 26 ngày để từ kinh đô nước mình qua kinh đô nước bạn. Trước Quang Trung và Lê Trọng Tấn, đấy là Lý Thường Kiệt.
– Vua Chế Củ trong đêm mang vợ con chạy trốn. Lý Thường Kiệt hạ gục Chiêm Thành. Trong vòng 1 tháng, đuổi Chế Củ ra tới tận biên giới Chân Lạp và bắt sống tại biên giới. Khi đó là vào tháng 4.
– Tháng 7, đoàn quân Nam Chinh chiến thắng trở về. Vua Chế Củ và toàn gia bị bắt sống. Để được toàn mạng, Chế Củ xin cống nạp cho Đại Việt ba châu: Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý. Bạn biết đó là vùng đất nào không? Đấy là Quảng Bình và Quảng Trị hôm nay. Có lẽ đọc đến đây, mình đã cho các bạn miền Trung biết thêm một chút lịch sử của quê hương các bạn rồi đấy.
– 35 năm sau, người kế thừa ngôi báu của Chiêm Thành là Chế Ma Đa quyết định đòi lại đất của tổ tiên. Ông mở đợt phản công nhắm về Đại Việt và lấy lại 3 vùng đất ấy. Lý Thường Kiệt buộc phải ra tay. Năm ấy, vị tướng già của chúng ta đã 85 tuổi. Lý Thường Kiệt là vị tướng quân có tuổi thọ cao bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Ông làm quan trải qua ba đời vua nhà Lý, gồm Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1127).
Lại một lần nữa, ông đánh tan quân Chiêm Thành, buộc Chế Ma Na phải trả lại 3 vùng đất đã được lấy đi.
Với nền tảng nhà Lý đặt ở thế kỷ XI trên bệ phóng là mưu lược cầm quân của Lý Thường Kiệt, các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau này dần dần tạo nên đất nước hình chữ S như ngày hôm nay. Tất cả mọi sự đều bắt nguồn từ quân trạng của thái úy Lý Thường Kiệt.
***
Câu chuyện hôm nay để hiểu về con đường mà cha ông ta đã từng đi. Hãy góp phần bảo vệ quê hương, đấy là vùng đất cha ông ta đổ xương máu để giành được. Lịch sử luôn công bằng, lịch sử sẽ hỏi ta rằng, đất không phải là ta giành được, đất là do cha ông đổ máu mà có, thế hệ sau hãy phát triển hoặc giữ gìn mảnh đất chứ đừng phá công sức của cha ông.
Nếu hôm nay phá hoại tấc đấc của cha ông, ngày xuống suối vàng, trả lời sao với tiền nhân đây?
© Dũng Phan
Saigon / 2016
1 Response
[…] bạn còn nhớ bài Lý Thường Kiệt tôi viết về một nhân vật tên là Nguyễn An chứ? Hoạn quan Nguyễn An chính là […]